Câu 1:
– Những yếu tố tả thực:
+ Hình ảnh bãi cát: biểu tượng cho con đường đi tìm chân lí xa xôi, mịt mù, muốn đến được đích phải đầy nhọc nhằn. Con đường đi tìm lý tưởng cao đẹp của người quân tử vô cùng gian nan và thử thách. Hình ảnh này xuyên suốt bài thơ, hình ảnh gắn với tâm trạng của nhân vật trữ tình.
+ Hình ảnh người đi trên cát mờ mịt, núi muôn lớp, sóng muôn đợt, một sa mạc cát mênh mông vô tận, bãi cát lại bãi cát, một người đi đến mặt trời lặn vẫn chưa thôi, vừa đi vừa lệ tuôn đầy. Qua đó thể hiện được nỗi niềm day dứt, đau xót của tác giả đi trên con đường tìm lý tưởng nhưng xã hội bù nhìn không cho ông lối thoát.
Câu 2:
Nội dung của 6 câu thơ đó là đề cập đến sự nhận thức về con đường danh lợi của Cao Bá Quát. Đó chính là nỗi chán nản của tác giả vì tự mình phải hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh. Sự chán nản bắt nguồn từ sự tự hành hạ mình vì con đường danh lợi.
- “Không học được….giận khôn vơi”: nhịp điệu đều, chậm, buồn: tác giả tự giận mình không có khả năng như người xưa, mà phải tự hành hạ mình, chán nản mệt mỏi vì công danh.
- “Xưa nay phường….bao người”
Câu hỏi tu từ, hình ảnh gợi tả “hơi men” không chỉ là lời ca thán của tác giả mà con là lời đánh giá đúng bản chất của xã hội đương thời.
=> Sự cám dỗ của danh lợi đối với con người. Vì công danh, lợi danh mà con người bôn tẩu ngược xuôi. Danh lợi cũng là thứ rượu thơm làm say lòng người. Sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với phường danh lợi. Câu hỏi nhà thơ như trách móc, như giận dữ, như lay tỉnh người khác nhưng cũng tự hỏi bản thân. Ông đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, côn đường công danh đương thời vô nghĩa, tầm thường. Danh lợi có tác dụng cám dỗ ghê gớm mà không ai có thể cưỡng lại được. Tác giả biết là con đường danh lợi rất khó khăn "tất cả", nhưng cũng phải theo vì hơi men của nó. Chính vì vậy, tác giả là một trong những người say hơi men.
=> Sáu câu thơ cho thấy tư tưởng rất rõ ràng của tác giả về cong đường công danh, sự nghiệp. Khi nhận thức ra con đường danh lợi khó khăn, tác giả như đặt ra cho mình một chọn lựa: phải thoát ra khỏi con đường danh lợi. Tác giả đã nhận ra tính chất vô nghĩa của con đường khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ.
Câu 3:
Tâm trạng của người lữ khách khi đi trên bãi cát là trạng chán nản, mệt mỏi rã rời.
“ Bãi cát dài…làm chi trên bãi cát?” Tâm trạng bế tắc của người đi đường, chưa tìm thấy lối thoát trên đường đời. Nỗi niềm bi phẫn cực độ “ anh đứng làm chi trên bãi cát?” Câu hỏi tu từ là câu cảm thán thể hiện tâm trạng băn khoăn, dây dứt giữa việc đi tiếp hay dừng lại?
Tác giả đã thể hiện cái mâu thuẩn chưa thể giải quyết trong tâm trạng của mình. Đi tiếp một cách khó nhọc hay từ bỏ nó? Nếu đi mình sẽ tầm thường như phường danh lợi xưa nay, nếu bỏ cuộc, chẳng biết rẽ hướng nào vì “phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng, phía Nam núi Nam sóng dào dạt”. Mọi ngã đều chắn hướng, dưới chân là bãi cát và con đường ghê sợ, biết làm sao đây? Bài thơ kết lại trong một nỗi niềm bi phẫn cực độ: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Một sự bỏ cuộc, từ chối vì ông biết trước con đường ấy sẽ dẫn đến ngõ cụt. Sự bỏ cuộc thật đáng trân trọng, cái bế tắc tuyệt vọng nhưng không làm họ nhỏ bé, hèn mọn, từ bỏ cái mịt mù vô nghĩa để tìm lại từ đầu một con đường đi đúng để thực hiện lí tưởng…
=> Tầm tư tưởng cao rộng của nhà thơ chính là ở chỗ đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ. Người đi trên cát sa lầy vào trong cát chẳng khác nào công danh, bổng lộc giống như cái bả lôi kéo con người, làm cho con người mê muội. Nhìn thấy con đường danh lợi đầy nhọc nhằn, đầy chông gai, tuy chưa thể tìm ra một con đường đi nào khác, song Cao Bá Quát đã thấy không thể cứ đi trên bãi cát danh lợi đó mãi được.
Câu 4:
Bài thơ sáng tác theo lối thơ cổ, câu dài, ngắn xen nhau, vần thơ bằng trắc phối nhịp nhàng, tiết tấu phong phú, giọng điệu khi thì bi tráng, khi thì u buồn…
Nhịp điệu của bài thơ rất độc đáo, những câu thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ với ngắt nhịp khá linh hoạt. Khi thì là nhịp2/3 mô phỏng bước đi khó nhọc trên bãi cát, khi là 3/5, khi lại 4/3. Những lúc dừng lại suy nghĩ, câu thơ lại kéo dài ra, nhịp thơ cũng biến hóa phù hợp. Những câu thơ: “Không học được….giận khôn vơi” với nhịp điệu đều, chậm, buồn để cho thấy tác giả tự giận mình không có khả năng như người xưa, mà phải tự hành hạ mình, chán nản mệt mỏi vì công danh- lợi danh. Nhịp điệu của các câu thơ cuối thơ lúc nhanh, lúc chậm. lúc dàn trả, lúc dứt khoát. Từ đó thể hiện tâm trạng suy tư của con đường danh lợi mà nhà thơ đang đi
Từng nhịp điệu của bài thơ chính là tâm trạng khi khó nhọc, khi day dứt, khi đau khổ bước trên con đường của mình.
II. Luyện tập
Bài thơ đã biểu lộ sự chán ghét của một ngời trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khát khao thay đổi cuộc sống. Bài thơ đã xây duenjg hình ảnh một người trí thức tự nhiệm, trung thực, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cuộc đời mình nhưng do hoàn cảnh mà phải luôn băn khoăn, day dứt về con đường đang đi. Một con người đầy bản lĩnh, quyết không chịu say, không chịu "học phép ngủ" để cùng say ngủ với biết bao kẻ dung tục trong đời. Bãi cát và con đường dài là biểu tượng cho con đường đi tìm chân lí xa xôi, mịt mù, muốn đến được đích phải đầy nhọc nhằn. Và tác giả chán nản vì tự mình phải hành hạ thân xác của mình để theo đuổi công danh phù phiêm. Tác giả đã nhận thấy rõ tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ. Sự băn khoăn trăn trở còn được đẩy lên mức độ căng thẳng với những lời tự tra vấn quyết liệt về lẽ sống, về con đường phải đi. Từ đó đã thể hiện một Cao Bá Quát với nhân cách cao cả, không chịu thỏa hiệp với dục vọng bản thân và với thực trạng xã hội đang tiềm chứa nhiều suy thoái.
Có lẽ chính vì vậy mà trong ông đã tiềm chứa ước muốn đổi thay thực trạng xã hội đương thời, quyết không chấp nhận thực tại. Và khi đã chứng kiến sự mục rỗng của chế độ nhà nước thời bấy giờ, thấy hết cảnh thối nát chốn quan trường, thấy rõ hiện trạng xã hội thì ước muốn đó sẽ chuyển thành hành động phản kháng mãnh liệt. Và đó là một phần nguyên nhân giải thích lí do khiến Cao Bá Quát đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn năm 1854.